Sa nhân: Thảo dược vàng cho tiêu hóa mạnh mẽ

Sa nhân là một loại dược liệu quý được sử dụng trong Đông y để điều trị nhiều bệnh. Đặc biệt, vị thuốc này có khả năng kích thích tiêu hóa, hỗ trợ cho những người gặp phải các vấn đề về tiêu hóa như ăn không ngon, khó tiêu, tiêu chảy mạn tính. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về đặc điểm, công dụng và cách sử dụng của loại dược liệu này.

Giới thiệu về Sa nhân

  • Tên thường gọi: Xuân sa, Dương xuân sa, Mé tré bà, Co nẻnh (Thái), Mác nẻnh (Tày), Sa ngần (Dao)…
  • Tên khoa học: Amomum xanthioides Wall.
  • Họ khoa học: Gừng (Zingiberaceae).

Sa nhân là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây Sa nhân. Vì hạt trông giống hạt sỏi, do đó có tên “Sa nhân” (Sa là cát, sỏi).

Đặc điểm sinh trưởng và thu hái

Cây Sa nhân phân bố ở các nước như Ấn Độ, Campuchia, Thái Lan và Lào. Ở Việt Nam, cây được trồng chủ yếu ở các tỉnh miền núi, đặc biệt là ở miền núi phía Bắc và Trung. Cụ thể như Bắc Cạn, Thanh Hóa, Bắc Giang, Tây Bắc, Thái Nguyên, Hòa Bình…

Sa nhân tím là cây ưa ẩm, chịu bóng từ 20 – 50% ánh sáng, và thích sáng trong trường hợp được trồng thành những quần thể lớn trên đất sau nương rẫy. Cây thường mọc thành đám ở ven rừng kín thường xanh, rừng thứ sinh dọc theo hành lang ven suối. Quả của cây thu hái gần như quanh năm, với mùa thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 9, sau đó phơi khô.

Tùy vào thời điểm thu hoạch và sấy khô để phân loại sa nhân:

  • Loại hạt cau được xem là loại tốt nhất, có hạt to. Khi hạt khô thường không bị nhăn nheo. Hạt có màu nâu sẫm, vỏ cứng, nhấm cay nhiều, nồng.
  • Sa nhân non được xem là sa nhân loại 2. Thường hạt không mẩy, có vết nhăn nheo, có màu vàng răng ngựa, nhấm ít cay hơn loại 1.
  • Loại 3 là Sa nhân vụn. Bao gồm những quả Sa nhân đường, hay non bị vỡ ra hoặc do khi thu hoạch không được phơi sấy đúng.
  • Loại 4 là Sa nhân đường, khi sờ tay thấy ẩm hơi dính, nhấm hơi ngọt, mềm, màu đen.
Tham khảo 

Dược liệu là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây Sa nhân
Dược liệu là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây Sa nhân

Mô tả toàn cây

Sa nhân là một loại cây thảo, sống lâu năm và có thể cao từ 2 – 3m. Thân rễ của cây mọc lan trên mặt đất.

Lá của cây mọc so le thành 2 dãy, có hình mác, dài từ 23 – 30cm, rộng từ 5 – 6cm, gốc hình nêm, đầu nhọn, mép nguyên. Hai mặt lá nhẵn, mặt trên bóng, lưỡi bẹ mỏng, xẻ đôi, cuống từ 5 – 10mm.

Cụm hoa mọc từ thân rễ thành bông, có 5 – 7 hoa màu trắng. Lá bắc ngoài có hình bầu dục và màu nâu. Đài hoa dài 1,5cm, có 3 răng nhọn. Tràng hoa có hình ống dài từ 1,3 – 1,5cm, chia thành 3 thùy, mặt ngoài có lông thưa, thùy giữa có hình trứng ngược, hai thùy bên hẹp. Chỉ nhị dài hơn bao phấn, bầu có hình trụ tròn, hơi phình ở giữa, có lông trắng.

Quả của Sa nhân có hình cầu, màu tím, đường kính từ 1,5 – 2cm, mặt ngoài có gai ngắn, chia thành 3 ô. Hạt của quả có áo và có kích thước đa dạng, đường kính từ 3 – 4mm.

Cây Sa nhân có mùa hoa là tháng 4 đến tháng 5.

Sa nhân là dược liệu thường được sử dụng để điều trị bệnh trong Đông y
Sa nhân là dược liệu thường được sử dụng để điều trị bệnh trong Đông y

Bộ phận làm thuốc bào chế

Để chế biến dược liệu Sa nhân, chỉ cần phơi sấy cả chùm quả trong vòng 5 ngày đêm. Không nên bóc vỏ quả hoặc để hạt trần phơi khô để đảm bảo phẩm chất của dược liệu, tránh mất tinh dầu và làm hạt dễ vỡ. Nếu không phơi khô ngay sau thu hoạch, quả có thể bị thối nát.

Khi sử dụng, cần dùng dao để tách vỏ quả, sau đó lấy toàn bộ hạt ép dính vào nhau. Nhiệt độ sấy hoặc phơi để quả đạt chất lượng tốt thường là 40 – 50°C.

Sau khi chế biến, dược liệu Sa nhân có các đặc điểm sau:

  • Quả có hình bầu dục hoặc hình trứng, dài từ 1,5 – 2cm, đường kính từ 1 – 1,5cm, màu nâu nhạt hoặc nâu sẫm, có 3 gờ tù (vách ngăn).
  • Mỗi ngăn chứa từ 7 – 26 hạt. Bên ngoài mỗi hạt có một màng mỏng, màu trắng mờ (áo hạt) tụ lại thành một khối.
  • Hạt có màu nâu sẫm, cứng nhăn nheo, dính theo lối đính noãn trụ giữa. Khi cắt ngang, vỏ hạt có màu nâu sẫm, hình khối nhiều mặt, ngoại nhũ màu trắng, nội nhũ màu trắng ngà.
  • Có mùi thơm và vị hơi cay.
Tham khảo  Ngũ vị tử: Bí quyết từ dược liệu thiên nhiên

Sa nhân loại tốt là hạt to, khi khô không nhăn nheo, màu nâu sẫm, cứng, vị cay nồng
Loại tốt là hạt to, khi khô không nhăn nheo, màu nâu sẫm, cứng, vị cay nồng

Bảo quản

Dược liệu Sa nhân sau khi sơ chế cần được bảo quản ở nơi khô ráo và thoáng.

Xem thêm: An nam tử (hạt Ươi): Thanh nhiệt giải độc, chữa ho

Thành phần hóa học của Sa nhân

Trong quả Sa nhân trắng, có khoảng 2 – 3% tinh dầu. Các thành phần hóa học chứa trong tinh dầu bao gồm: phelandren 2,3%, saponin 0,69%, d-camphor 33%, d-borneola 19%, I-limonen 7%, linalola, paraametoxyethylxinamat 1%, acetat bornyla 26,5%, pinen 1,8%…

Quả Sa nhân tím cũng chứa tinh dầu, tỷ lệ khoảng 0,65%. Thành phần chính của tinh dầu bao gồm a pinen, camphor, p pinen, caren-3 và Iimonen-borneol.

Tác dụng của Sa nhân

Tác dụng theo Y học hiện đại

  • Kích thích và giúp tiêu hóa, thường được sử dụng làm gia vị và chế rượu mùi.
  • Giảm cholesterol máu.
  • Kháng khuẩn: Tinh dầu từ Sa nhân có tác dụng diệt lỵ amip.

Tác dụng theo Y học cổ truyền

  • Vị cay, tính ôn, có mùi thơm.
  • Quy kinh: Tỳ, Vị, Thận.
  • Tác dụng: Hành khí, điều hòa tỳ vị, làm cho tiêu hóa dễ dàng, kích thích tiêu hóa, an thai, giảm đau, trị đau bụng, buồn nôn, ăn không tiêu, tiêu chảy, đau nhức cơ xương…

Cách sử dụng và liều dùng

Cách sử dụng dược liệu Sa nhân tùy thuộc vào mục đích và từng bài thuốc cụ thể. Vị thuốc Sa nhân thường dùng uống từ 1 – 3g, và có khi dùng từ 4 – 6g dưới dạng thuốc viên, thuốc sắc hoặc hoàn tán. Nếu dùng thuốc sắc, dược liệu được cho vào sau, vì sắc có tác dụng lâu và sẽ làm mất đi hiệu quả của thuốc.

Kiêng kỵ khi sử dụng Sa nhân

Người bị âm hư nội nhiệt không nên sử dụng (trường hợp có triệu chứng nóng trong người, gầy yếu, miệng khô, khát nước, mồ hôi trộm, lòng bàn tay chân nóng…).

Ngoài ra, bệnh nhân cũng nên lưu ý không nên sắc thuốc quá lâu vì sẽ làm mất đi tính hiệu quả của thuốc.

Tham khảo  Dâu dại - Hương vị tự nhiên của nước Nga

Vị thuốc có khả năng hỗ trợ tiêu hóa, giảm đau bụng
Vị thuốc có khả năng hỗ trợ tiêu hóa, giảm đau bụng

Một số bài thuốc kinh nghiệm

Trị bụng đầy đau do khí trệ

  • Sa nhân 6g, Mộc hương 4g, Đảng sâm 10g. Trần bì 6g, Bán hạ, Phục linh đều 10g, Cam thảo 3g, Gừng tươi 6g sắc uống (Hương sa nhị trần thang).

Hoặc

  • Sa nhân 6g, Chỉ thực 8g, Mộc hương 4g, Bạch truật 10g, sắc uống (Hương sa chỉ truật hoàn).

Trị nấc, nôn do tỳ vị hư hàn ăn không tiêu

  • Sa nhân 6g, Mộc hương 4g. Đảng sâm, Bán hạ, Bạch truật, Bạch linh đều 10g. Trần bì 6g, Sinh khương 8g, Cam thảo 3g, sắc uống (Hương sa lục quân tử thang).

Trị chứng tả lị mạn tính do tỳ vị hư hàn, viêm đại tràng mạn tính

  • Bài Hương sa lục quân (như trên).

Hoặc

  • Súc sa hoàn: Sa nhân 6g, Chế phụ tử 6g, Hoàng liên, Ngô thù du đều 4g. Can khương, Mộc hương đều 4g. Kha tử bì, Nhục đậu khấu đều 6g. Sắc uống (dùng cho trường hợp hàn thấp nặng).

Hoặc

  • Sa nhân, Bán hạ, Hạnh nhân, Nhân sâm, Bạch truật 8g. Cam thảo 4g, Hoắc hương 8g, Mộc qua 8g, Hậu phác 8g, Biển đậu 8g, Phục linh 8g, Đại táo 3g, Sinh khương 3 lát. Sắc uống (Lục Hòa Thang).

Hỗ trợ điều trị chứng tăng cholesterol máu

  • Sa nhân 8g, Phòng đảng sâm, dây Câu đằng, Củ chóc (chế) 15g. Củ tóc (bỏ lõi), Thạch cao, Bạc hà, vỏ Quýt mỗi vị 12g. Cúc hoa vàng, lá Tre non mỗi vị 10g. Làm thành viên hoàn ngày uống 20 – 30g.

Một số kinh nghiệm sử dụng độc vị Sa nhân trong điều trị bệnh

  • Đau nhức răng: ngậm Sa nhân hoặc tán bột chấm vào răng đau.
  • Nấc cụt: Trác Ái Văn đã theo dõi 11 ca bệnh nhân cho uống Sa nhân nhai nuốt, mỗi lần 2g, ngày 3 lần. Kết quả rất tốt, phần lớn bệnh nhân chỉ cần sử dụng 2 lần là khỏi (Tạp chí Trung y Triết giang 1988, 3:100).
  • Trị đàm nhiều, ho: Sa nhân 8g, Bán hạ 8g, Trần bì 6g, Phục linh 8g, Chỉ xác 6g, sắc uống (Sa Nhân Chỉ Trần Thang – Nghiệp Phương).

Sa nhân là một loại vị thuốc cổ truyền được sử dụng từ rất lâu trong dân gian. Nhờ có nhiều tác dụng quý mà dược liệu này được dùng nhiều trong các bài thuốc chữa bệnh cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, để tận dụng hết công dụng của vị thuốc đối với sức khỏe, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ để kiểm soát rủi ro và những tác dụng không mong muốn.

Mục nhập này đã được đăng trong Đông y. Đánh dấu trang permalink.